• If this is your first visit, be sure to check out the FAQ by clicking the link above. You may have to register before you can post: click the register link above to proceed. To start viewing messages, select the forum that you want to visit from the selection below.
Xin chào ! Nếu đây là lần đầu tiên bạn đến với diễn đàn, xin vui lòng danh ra một phút bấm vào đây để đăng kí và tham gia thảo luận cùng VnPro.

Announcement

Collapse
No announcement yet.

Sự khác nhau giữa Ethernet II và IEEE 802.3 (Phần 2)

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Sự khác nhau giữa Ethernet II và IEEE 802.3 (Phần 2)

    Click image for larger version

Name:	ieee03.jpg
Views:	135
Size:	151.8 KB
ID:	425803



    802.2 với 802.3
    802.2 và 802.3 không trực tiếp kết nối đến kiến trúc vật lý, ngoại trừ định dạng của frame Ethernet 2.
    802.2 là kiểu frame mặc định cho Netware 3.12 và 4.x.802.3 được sử dụng cho Netware 3.11 và các phiên bản trước đó
    802.3 có hơi giống với Novell 802.3 raw + 802.2 LLC, được tạo ra bởi IEE cho đặc điểm kỹ thuật Ethernet của riêng nó. Do đó nó được gọi là Ethernet 2.
    Định dạng Frame từ IEEE
    Có 3 định dạng frame từ IEEE: IEEE 802.3, IEEE 802.3 với SNAP, và 802.3 với 802.2. Các hệ điều hành hiện đại có thể gửi và nhận bất cứ định dạng frame này.
    Tại sao Ethernet 2 phổ biến hơn trong quản lý?
    Để chạy TCP/IP trên IEEE 802.3, định dạng SNAP phải được sử dụng. Nó yêu cầu 8 bytes trường dữ liệu để xác định loại frame dữ liệu: 3 bytes cho Logical Link Control, 3 bytes cho SNAP header, và 2 bytes cho trường Protocal Type. Điều này có nghĩ là trường dữ liệu thu hẹp từ phạm vi tiêu chuẩn từ 46 đến 1.500 bytes xuống phạm vi 38 đến 1.492 bytes. Đây là lý do nhiều quản trị viên sử dụng Ethernet II.
    Tại sao Ethernet II có thể tạo nên sự khác biệt?
    Khi Ethernet được phát minh, nó được cho là có thông lượng tương đối khoảng 10 megabyte trên giây (mbps). Vào năm 1976 thì đây được xem như là kì tích, và bởi vì lượng dữ liệu được chuyển là nhỏ nên nó đáp ứng được công việc. Xem nhanh một số phép toán truyền dữ liệu đơn giản giải thích lý do tại sao 8 byte được sử dụng bởi 802.3 có thể khiến quản trị viên chọn Ethernet II.
    Giả sử bạn gửi dữ liệu có kích thước 100 gigabits qua Ethernet. Card Ethernet máy tính sẽ chuyển đổi dữ liệu và gửi chúng thông qua frame. Do cách thức hoạt động của Ethernet, mỗi frame sẽ mất một khoảng thời gian nhất định để gửi, và mặc dù điều này là nhỏ, nhưng nó có thể trở thành một yếu tố quan trọng, đặc biệt nếu dữ liệu phải được chia thành quá nhiều khung.
    Trong ví dụ trên, khi gửi 100 gigabits dữ liệu, nếu ta sử dụng Ethernet II, chúng ta có thể có mỗi frame lớn với kích thước 1500 bytes. Chúng ta sẽ giả định là mỗi frame sẽ có kích thước tối đa là 1500 bytes. Vì thế, 100 gigabit dữ liệu sẽ được chia thành 66,667 đường truyền Ethernet riêng lẻ. Mặc dù đó là rất nhiều, nhưng nó ít hơn đáng kể so với những gì cần thiết nếu mỗi payload ít hơn 8bits, hoặc 1492 bytes.
    Nếu mỗi payload Ethernet được gửi qua 802.3, yêu cầu kích thước truyền tối đa là 1492 byte, thì khối dữ liệu 100 gigabit sẽ được gửi bằng cách sử dụng 67.025 frame Ethernet riêng lẻ. Chúng ta có thể thấy nó ít hơn 358 frame bởi 2 lý do: thời gian và tính toàn vẹn của đường truyền.
    Yếu tố thời gian
    Khoảng thời gian để truyền gói tin Ethernet là không đáng kể. Nếu bạn đang đợi tải một tài liệu lớn, một email hoặc một trang web, thì thời gian trôi qua giữa mỗi frame là rất nhỏ nên bạn sẽ không nhận thấy điều đó.
    Mặt khác, nếu một tổ chức phụ thuộc vào luồng dữ liệu liên tục đến và đi từ người dùng, thì ngay cả những sự chậm trễ nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến trải nghiệm của người dùng cuối. Trong các ứng dụng cung cấp các phép tính trong từng giây ảnh hưởng đến mọi thứ, từ cách xe tự lái chuyển sang thời điểm giao dịch trên thị trường chứng khoán, phần nhỏ của giây có thể có nghĩa là sự khác biệt giữa thành công và thất bại — hoặc thậm chí là an toàn và nguy hiểm.
    Ngoài ra, nếu nhà cung cấp dịch vụ đám mây cần đáp ứng các yêu cầu của SLA (service level agreement- thỏa thuận mức dịch vụ), thì lượng thời gian cần thiết để gửi dữ liệu đến và đi từ người dùng có thể có nghĩa là sự khác biệt giữa khách hàng hài lòng hoặc không hài lòng. Việc giữ chân càng nhiều khách hàng trung thành càng tốt có thể ảnh hưởng đến tốc độ gửi dữ liệu.
    Mối quan tâm đối với toàn vẹn dữ liệu
    Mỗi khi dữ liệu được gửi qua kết nối Ethernet, hệ thống phải kiểm tra xem có dữ liệu khác trong đường truyền mà dữ liệu của bạn có thể va chạm trên đường đi hay không. Nếu có, lỗi sẽ được trả về và hệ thống Ethernet của bạn sẽ tạm dừng quá trình truyền. Nếu quá trình truyền bị tạm dừng, người nhận có thể bị giảm chất lượng đáng kể.
    Trong hầu hết các tình huống, sự khác biệt về khả năng xảy ra sự cố toàn vẹn dữ liệu xuất hiện đối với 358 frame như đã ví dụ thường là nhỏ. Nhưng khi kích thước của đường truyền tăng lên nhiều gigabyte, terabyte và cao hơn, thì khả năng xảy ra sự cố cũng tăng theo. Điều này thường đủ để khiến quản trị viên bỏ qua việc sử dụng 802.3.
    Ethernet II và IEEE 802.3
    Card mạng hoặc adapter, lấy dữ liệu đang gửi và đặt nó vào các frame mà máy tính đang nhận dữ liệu có thể đọc được. Với Ethernet 802.3, có ít không gian hơn cho dữ liệu sau khi hoàn tất quá trình tạo frame.
    Vì lý do này, một số quản trị viên ưu tiên Ethernet II — không phải vì nó truyền dữ liệu tốt hơn mà vì nó có giới hạn cao hơn về lượng dữ liệu có thể được truyền trong mỗi frame.
    Đối với những người dùng lo lắng về lượng dữ liệu có thể được gửi trong mỗi frame, Ethernet II có thể là một lựa chọn thích hợp hơn. Đối với những người có đường truyền không phụ thuộc vào tốc độ dữ liệu có thể được gửi, sự khác biệt về tốc độ giữa Ethernet II và 802.3 có thể không đáng kể.

Working...
X