Tác giả: (đang cập nhật)
NHỮNG TÍNH NĂNG VÀ MODE CHÍNH CỦA IPSec
- Thuật ngữ IPSec là một từ viết tắt của thuật Internet Protocol Security. Nó có quan hệ tới một số bộ giao thức (AH, ESP, FIP-140-1, và một số chuẩn khác) được phát triển bởi Internet Engineering Task Force (IETF). Mục đích chính của việc phát triển IPSec là cung cấp một cơ cấu bảo mật ở tầng 3 (Network layer) của mô hình OSI, như hình 1-1.

Figure 1-1: The position of IPSec in the OSI model.
- IPSec VPN dùng các dịch vụ được định nghĩa trong IPSec để đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu, tính nhất quán, tính bí mật và xác thực của truyền dữ liệu trên một hạ tầng mạng công cộng.
- Ngoài ra,với IPSec tất cả các ứng dụng đang chạy ở tầng ứng dụng của mô hình OSI đều độc lập trên tầng 3 khi định tuyến dữ liệu từ nguồn đến đích. Bởi vì IPSec được tích hợp chặt chẽ với IP, nên những ứng dụng có thể dùng các dịch vụ kế thừa tính năng bảo mật mà không cần phải có sự thay đổi lớn lao nào. Cũng giống IP, IPSec trong suốt với người dùng cuối, là người mà không cần quan tâm đến cơ chế bảo mật mở rộng liên tục đằng sau một chuổi các hoạt động.
- IPSec hoạt động dựa trên mô hình ngang hàng (peer-to-peer) hơn là mô hình client/server. Security Association (SA) là một qui ước giữa hai bên trong đó thúc đẩy các trao đổi giữa hai bên giao tiếp. Mỗi bên giao tiếp (có thể là thiết bị, phần mềm) phải thống nhất với nhau về các chính sách hoặc các qui tắc bằng cách sẽ dò tìm các chính sách này với đối tác tìm năng của nó. Có hai kiểu SA: ISAKMP SA (còn được biết đến với tên gọi là IKE SAs) và IPSec SA.
- Security Associations (SAs) là một khái niệm cơ bản của bộ giao thức IPSec. SA là một kết nối luận lý theo một phương hướng duy nhất giữa hai thực thể sử dụng các dịch vụ IPSec.
• Các giao thức xác nhận, các khóa, và các thuật toán
• Phương thức và các khóa cho các thuật toán xác nhận được dùng bởi các giao thức Authentication Header (AH) hay Encapsulation Security Payload (ESP) của bộ IPSec
• Thuật toán mã hóa và giải mã và các khóa.
• Thông tin liên quan khóa, như khoảng thời gian thay đổi hay khoảng thời gian làm tươi của các khóa.
• Thông tin liên quan đến chính bản thân SA bao gồm địa chỉ nguồn SA và khoảng thời gian làm tươi.
• Cách dùng và kích thước của bất kỳ sự đồng bộ mã hóa dùng, nếu có.

Figure 1-2: A generic representation of the three fields of an IPSec SA.
- SPI (Security Parameter Index): Đây là một trường 32 bit dùng nhận dạng giao thức bảo mật, được định nghĩa bởi trường Security protocol, trong bộ IPSec đang dùng. SPI được mang theo như là một phần đầu của giao thức bảo mật và thường được chọn bởi hệ thống đích trong suốt quá trình thỏa thuận của SA.
- Destination IP address: Đây là địa chỉ IP của nút đích. Mặc dù nó có thể là địa chỉ broadcast, unicast, hay multicast, nhưng cơ chế quản lý hiện tại của SA chỉ được định nghĩa cho hệ thống unicast.
- Security protocol: Phần này mô tả giao thức bảo mật IPSec, có thể là AH hoặc ESP.
Chú thích :
• Broadcasts có nghĩa cho tất cả hệ thống thuộc cùng một mạng hoặc mạng con. Còn multicasts gửi đến nhiều (nhưng không phải tât cả) nút của một mạng hoặc mạng con cho sẵn. Unicast có nghĩa cho 1 nút đích đơn duy nhất. Bởi vì bản chất theo một chiều duy nhất của SA, cho nên 2 SA phải được định nghĩa cho hai bên thông tin đầu cuối, một cho mỗi hướng. Ngoài ra, SA có thể cung cấp các dịch vụ bảo mật cho một phiên VPN được bảo vệ bởi AH hoặc ESP. Do vậy, nếu một phiên cần bảo vệ kép bởi cả hai AH và ESP, 2 SA phải được định nghĩa cho mỗi hướng. Việc thiết lập này của SA được gọi là SA bundle.
• Một IPSec SA dùng 2 cơ sở dữ liệu. Security Association Database (SAD) nắm giữ thông tin liên quan đến mỗi SA. Thông tin này bao gồm thuật toán khóa, thời gian sống của SA, và chuỗi số tuần tự. Cơ sở dữ liệu thức hai của IPSec SA, Security Policy Database (SPD), nắm giữ thông tin về các dịch vụ bảo mật kèm theo với một danh sách thứ tự chính sách các điểm vào và ra. Giống như firewall rules và packet filters, những điểm truy cập này định nghĩa lưu lượng nào được xữ lý và lưu lượng nào bị từ chối theo từng chuẩn của IPSec.
• Một IPSec SA dùng 2 cơ sở dữ liệu. Security Association Database (SAD) nắm giữ thông tin liên quan đến mỗi SA. Thông tin này bao gồm thuật toán khóa, thời gian sống của SA, và chuỗi số tuần tự. Cơ sở dữ liệu thức hai của IPSec SA, Security Policy Database (SPD), nắm giữ thông tin về các dịch vụ bảo mật kèm theo với một danh sách thứ tự chính sách các điểm vào và ra. Giống như firewall rules và packet filters, những điểm truy cập này định nghĩa lưu lượng nào được xữ lý và lưu lượng nào bị từ chối theo từng chuẩn của IPSec.
(còn tiếp)
Comment